Từng phần văn tự chuyển động lướt qua, phần lớn binh khí, pháp khí được giấu trong kho đều bị thất truyền, nguồn gốc của Thư Hùng Long Hổ kiếm hẳn là không rõ ràng. Vì vậy nên lúc trước Tư Đãi giáo úy cũng không tiện công khai sử dụng mà chỉ cất giữ chúng. Nhưng trừ những thứ đó ra thì rất nhiều sách cổ lại không hề bị mất tích.
Bí mật không được kể lại của phủ Thiên Sư, Trương Đạo Lăng chân truyền “Thực Khí ca quyết được dạy bởi Thái Thượng Lão Quân”.
“Thư Hùng Long Hổ kiếm kiếm quyết”
Năm Vĩnh Bình thứ mười một thời Đông Hán, lúc hòa thượng ở Tây Vực xây dựng Bạch Mã Tự, họ đã dâng tặng Phật bảo điển tịch thời đầu.
Bản gốc Phật gia Kim cương ấn, Phục ma ấn.
Vào cuối thời nhà Hán, Trương Giác đoạt được cuốn Thiên Thư, sau đó thì rơi vào tay thừa tướng Quý Hán Gia Cát Lượng.
Mãi cho đến thời nhà Đường.
Sư tổ Duy Thức Tông, pháp sư đại Đường Huyền Trang tự tay viết ra bản gốc sở chú tu hành.
Vào thời nhà Đường, sứ thần Nhật Bản đã đến và dâng tặng bộ điển tịch Cao Thiên Nguyên.
Cảnh giáo điển tịch cũng xuất phát từ tôn giáo Phương Tây ở thời Đường.
Bắt đầu từ Tây Hán Vũ đế, đến nhà Tùy, nhà Đường thì không còn lập nên Ngọa Hổ nữa.
Toàn bộ Thần Châu rộng lớn, cùng với từng nền văn minh mà Thân Chầu đã tiếp xúc qua, sư tổ của họ đã từng tự tay viết cuốn điển tịch tu hành. Những bí văn, pháp môn bị chôn cất trong dòng lịch sử cũng được ghi hết vào trong này.
Ngọa Hổ giáo úy.
Các quận bên ngoài, quái lực loạn thần.
Dẹp loạn muôn nơi.
Qua một lúc lâu, Vệ Uyên mới khẽ thở dài.
Đây mới là dẹp loạn muôn nơi…
Kho vũ khí đại Hán đúng thật là nơi lưu trữ bí mật của Tư Đãi giáo úy, được truyền từ đời này sang đời khác hơn một ngàn năm.
Thẻ tre bay lơ lửng bên cạnh Vệ Uyên, bên trên viết đầy tên gọi của các loại pháp khí và điển tích.
Nhưng rất nhanh sau đó, từng cái tên trên tấm thẻ tre dần dần biến mất.
Đây là một phần pháp khí đã bị đánh mất.
Sau đó, từng cái tên một trở nên mờ đi.
Đây là thứ mà đạo hạnh lẫn công trạng của anh không thể chạm đến được.
Phần còn lại cuối cùng rất đơn giản.
Vài lá bùa.
Một vài kiếm pháp do Ngọa Hổ giáo úy thu thập được, dùng để lấp đầy kho dự trữ.
Cùng với những bản ghi chép về các loại yêu quái khác nhau.
Vệ Uyên chỉ đành chọn ra vài thứ trong đấy.
Trầm tư hồi lâu, cuối cùng anh cũng không chọn những bùa pháp mình luôn muốn học trước kia, mà bấm mở ra quái bộ, tìm kiếm thông tin về họa bì ghi trong đó. Ở đây có ghi chép về phần lớn các đại yêu quái trước đây đã bị Tư Đãi giáo úy truy bắt, phong ấn và tiêu diệt. Trong đó có hai bản liên quan đến Sơn Quân.
Ghi chép nói về Họa Bì nô từng bị Vệ Uyên chém chết kia cũng chỉ còn lại một bản.
Tra cứu bản ghi chép không cần dùng đến công trạng, nhưng nếu muốn mở Nguyệt Lộ Lưu Ảnh (1) của yêu quái Họa Bì trong kho vũ khí đại Hán để hiểu biết tường tận hơn về yêu quái này thì sẽ phải tốn một điểm công trạng.
(1): một loại ảo cảnh
Bản ghi chép thông thường không thể chỉ cho Vệ Uyên biết được nhược điểm cũng như đặc trưng của yêu Họa Bì này.
Mà không nắm rõ được đặc điểm, muốn tìm một con yêu quái họa bì nho nhỏ giữa bảy trăm vạn người ở trong Tuyền thành này thì chẳng khác nào mò kim đáy bể cả.
Vệ Uyên quyết định mở Nguyệt Lộ Lưu Ảnh ra.
Một điểm công trạng biến mất.
Gió âm thầm giữ tiếng, để trăng lưu bóng hình.
Đây là bí pháp của người tu nguyệt thời cổ đại. Có thể lưu lại được một chút tin tức.
Khoảnh khắc công trạng biến mất, Vệ Uyên chợt phát hiện cảnh tượng xung quanh đã bị biến đổi. Cho dù anh có mở to mắt mà nhìn thì cũng vẫn như thế. Giờ phút này, anh đã không còn ở trong căn phòng của nhà bảo tàng kia nữa, mà đã đến một nơi hoàn toàn xa lạ. Trước mặt là một con đường mòn quanh co nhỏ hẹp, hai bên bị bao phủ bởi màn sương đen kịt.
Mà dáng vẻ hiện tại của Vệ Uyên cũng không còn là bộ dạng ban đầu nữa.
Toàn thân anh vận đồ đen, sau lưng mang một thanh Bát diện Hán kiếm.
Anh hơi nhíu mày, cất bước men theo con đường phía trước.
Từ từ đi trên con đường mòn, một khu phố cổ đại chợt hiện ra. Người đi đường qua lại ai nấy cũng đều mặc trang phục cổ, trông vô cùng chân thật. Nhưng để ý kỹ lại thấy nơi này mang một loại cảm giác khá điêu tàn, khiến Vệ Uyên thấy vô cùng quái lạ.
Đây là ảo ảnh lịch sử trong bản ghi chép về yêu quái.
Vệ Uyên hơi hiểu ra vấn đề, bèn tìm một quán nhỏ mà ngồi xuống. Chủ quán vẫn đang bận rộn nấu canh súp, bán súp bán trà, người tới lui qua lại dường như cũng không thấy được Vệ Uyên. Mà đối diện với Vệ Uyên là cánh cửa lớn của một tòa nhà cũ nát.
Giấy tiền vàng mã tung bay đầy đất.
Một người đàn ông gần ba mươi tuổi đang gào khóc.
Hôm nay vợ của anh ta chết rồi.
“Ôi, vợ vừa béo vừa xấu lại còn chột một mắt, chết thì thôi.”
“Đừng có nói như thế, mẹ cô ta là bà đồng đấy.”
“Ôi, bà đồng thì làm sao, con gái bà ta cũng đã chết rồi.”
Người đi đường bên trái bàn tán những lời này, dần bước vào trong màn sương mù, biến mất không dấu vết.
Vệ Uyên đã đoán ra được tình huống hiện tại.
Dựa theo lời giải thích của lệnh bài Ngọa Hổ, đây có lẽ là ký ức của một vị Tư Đãi giáo úy nào đó, hoặc là ảo cảnh được tạo ra bởi thuật pháp thần thông, dùng để ghi chép lại những câu chuyện bắt yêu nào đó mà ông ta đã từng trải qua, nhằm lưu truyền lại cho người đời sau.
Đây không phải là đãi ngộ mà yêu quái nào cũng có được.
Trong danh mục khi nãy, không phải yêu ma nào cũng có thể mở Nguyệt Lộ Lưu Ảnh.
Vệ Uyên nhíu mày, gỡ kiếm ra, sau đó đặt lên trên bàn. Yên lặng quan sát những biến đổi ở xung quanh mình.
Bầu trời bắt đầu tí tách đổ cơn mưa.
Gạch đá trên bức tường nhuốm màu loang lổ, mà trên bàn lại xuất hiện thêm một ly trà.
…
Đây là một câu chuyện xưa.
Câu chuyện bắt đầu từ cô vợ đã chết của người đàn ông nhà họ Lý sống trong thị trấn nhỏ. Nhưng nguyên nhân sâu xa hơn là do một vài chuyện liên quan đến người phụ nữ đó.
Lúc đi ngang qua Lâm trấn, vì quá mệt mỏi nên cô phải dừng lại nghỉ ngơi một lát. Vừa đói lại vừa mệt, may sao gặp được cô con gái út nhà họ Điền đang đi ra ngoài. Điền tiểu thư thấy dáng vẻ của nàng quá thê thảm, bèn sai người đưa một ít thức ăn cho cô.
Cô con gái nhà họ Điền năm đó chỉ mới mười sáu tuổi, gương mặt xinh đẹp, tấm lòng thiện lương.
Da dẻ trắng trẻo mịn màng.
Cô vợ nhà họ Lý sau lần gặp mặt đó, trong đầu luôn nhớ mãi không quên, vừa hâm mộ người khác, vừa âm thầm oán hận bản thân.
Ngày nhớ đêm mong, không bao lâu sau đã đổ bệnh không dậy nổi. Lúc nằm trên giường bệnh, cô ta chợt nhớ đến hình nộm mà mẹ đưa cho mình trước khi chết, nói rằng bên trong có một đại thần, sau khi đốt hình nộm giải trừ phong ấn cho nó, vị thần tiên kia sẽ thực hiện một việc cho cô ta.