Theo ông già mù miêu tả, ma tăng Vô Đạo xuất thân là thanh vân đạo sĩ, thời chiến tranh chỉ với một đôi giày cỏ và pháp trượng mà đi khắp nam bắc siêu độ vong linh. Là một vị cao tăng đắc đạo không xuất thế.
Qua lời kể như vậy, hình tượng vị Ma Tăng Vô Đạo trong lòng tôi không khỏi được nâng cao.
Chúng tôi đi tìm ở quanh phố Miếu mấy ngày trời mà cũng không gặp, tôi thắc mắc: "Liệu có phải ông ta không ở vùng này?"
Ông gì mù đáp: "Chắc không đâu, nghe nói ông ấy ở đây để tích âm đức, dù gì đây cũng là quê hương, ông ấy sẽ không đi đâu đâu, trừ khi là đầu thai rồi."
"Không trùng hợp như vậy chứ?"
Ông già mù lẩm nhẩm tính toán một hồi, nói: "Theo giang hồ đồn đại, ông ta phải tích âm đức trong một thập niên, ngày đó chưa tới, chắc ông ta vẫn còn ở đây."
Tìm kiếm tiếp một đêm mà không hiệu quả gì, hôm sau tôi bảo ông già mù ở nhà nghỉ ngơi, lớn tuổi rồi, trên núi hơi ẩm cao, dễ ngã bệnh. Dù sao đây cũng là chuyện riêng của mình, tối nay tôi cầm theo một bó nhang đi dọc sơn đạo, lên Thanh Vân Khán tìm kiếm. Cứ qua một cột mốc cây rừng, lại cắm một nén nhang, buổi tối ở Thanh Vân Khán yên ắng chẳng có âm thanh nào, mà đạo quán vẫn duy trì lối thắp nến từ xưa, không đèn điện, kiến trúc có từ thời Nam Tống. Đêm khuya đi vào đây cứ có cảm giác cổ kính hùng vĩ.
Gió đêm nhè nhẹ thổi, mây đen che khuất ánh trăng, lập tức không gian trở nên tăm tối. Âm khí lui tới đêm nay có vẻ nặng hơn ngày thường, tôi nhẩm tính, hóa ra hôm nay là mùng 1.
Rẽ vào một khu rừng, cứ đi 10m lại cắm một nén nhang, vùng này tôi chưa tìm. Cả khu rừng tối đen như mực, tiếng lá cây bị gió thổi va vào nhau san sát, tiếng côn trùng kêu càng khiến người ta phát run.
Rừng cây là nơi tập trung âm khí, cũng là nơi ma quỷ rất thích. Đột nhiên từ phía sâu bên trong vang lên một tiếng kêu quái lạ, tôi giật bắn mình, nhang trên tay rơi hết, vội cúi người xuống nhặt.
Trong cuốn sách cũ có ghi, nếu đêm khuya, ở nơi nào đó có tiếng kêu quái lạ thì tốt nhất đừng đi vào, bởi hơn phân nửa sẽ có thứ không sạch sẽ.
Trong lòng bắt đầu có ý định rút lui. Tuy những lần đối đầu với ma quỷ trước đây đều tìm được đường sống trong chỗ chết, nhưng bản thân tôi rõ hơn ai hết, đó chỉ là may mắn, thực lực của mình không đủ để đối đầu bất cứ thứ gì lúc này.
Nhưng đã tìm đến đây rồi, chẳng lẽ cứ từ bỏ như vậy?
Khẽ cắn môi, những thứ sau này mình phải đối mặt chỉ là ma quỷ ngày càng đáng sợ hơn. Nếu đến cô hồn dã quỷ mà cũng sợ thì làm sao có thể báo thù, làm sao tìm lại được cha mẹ và thôn dân?
Tuy nhiên, phép tắc thì vẫn phải có, tôi cắm từng nén nhang cách nhau mấy mét, cắm cả trên thân cây. Rồi lấy túi sách ra, lôi tiền vàng rải lên không trung, miệng nói: "Tiểu nhi vô tri mượn đường tới đây, quấy rầy rồi!"
Vừa rải tiền giấy, tôi vừa bước từng bước về hướng bên trong. Lúc sắp ra khỏi rừng cây thì chợt nghe có tiếng nói chuyện ở chân núi cách đó không xa. Tôi nhìn xuống, có một đoàn người, đại khái phải ba bốn mươi cá nhân, tay cầm nến đỏ, đi dọc theo thềm đá lên trên núi.
Giờ mới hơn 1h, còn lâu mới tới giờ tập thể dục buổi sáng, huống chi người tập thể dục cũng chẳng ai cầm theo ngọn nến đỏ quỷ dị như vậy.
Không đúng! Lòng tôi cả kinh, không phải là...ma đấy chứ?
Nghĩ đến đây, lông tơ toàn thân đã dựng đứng, trùng hợp thế à?
Ánh nến trong đêm tỏa ra vầng sáng mỏng manh, cứ như lửa ma trơi, lắc lư lảo đảo phiêu lên hướng đỉnh núi, khiến người nhìn tê dại da đầu. Tôi nén nỗi sợ hãi trong lòng suy nghĩ, không đúng, không đúng. Ma quỷ không thể cầm nến trong tay được, chúng vốn sợ đồ vật này mà.
Để an toàn, tôi vẫn cẩn thận dùng thông linh thuật quan sát thử, không có gì bất thường, đám đang lên núi kia đều là người cả.
Thở phào một hơi, nhưng thật quái lạ, tại sao giữa đêm khuya, họ lại tay cầm nến đi lên trên núi? Bèn lại gần, hỏi một bác gái trong đó: "Dì, mọi người đang làm gì vậy?"
Bác gái đáp: "Cầu nhân duyên."
Cầu nhân duyên?
Đây là lần đầu tôi nghe nói, giữa đêm khuya cầm nến đi cầu nhân duyên, cầu quỷ duyên à? Có điều con đường họ đi, mấy hôm nay tôi chưa từng tìm kiếm, bèn lấy đại một cây nến trong túi ra, châm lửa rồi bắt chước họ, đi theo.
Càng lên cao, không giang càng yên tĩnh, đoàn người như cũng ngầm cảm nhận được sự khác thường, không ai lên tiếng nữa.
Gió đêm bắt đầu thổi ào ào, cứ mỗi đợt gió quét qua, tôi đều nổi da gà. Có gì đó không thích hợp, những người xung quanh đều có vẻ hồ đồ, ánh mắt vô hồn, mặt mày xanh lét, ánh nến chiếu vào gương mặt thật đáng sợ. Tôi căng thẳng gọi: "Dì ơi!"
Bác gái đi ngay đằng trước như chẳng nghe tiếng tôi gọi, cứ lầm lũi đi lên phía trên. Tôi lại xoay người gọi thanh niên đi phía sau: "Tiểu ca!"
Anh ta cũng hình như không nghe thấy tiếng tôi. Tại sao lại như vậy?
Vừa nãy còn nói chuyện với nhau bình thường, sao giờ biến thành thế này?
Phía trên có một con đường, là bậc thang lát đá dẫn lên đỉnh núi, đỉnh núi tọa lạc một căn nhà gỗ. Căn nhà xuất hiện không hề có gì bất ngờ, giống như nó đã tồn tại từ rất lâu trước đây vậy.
Bên cạnh thềm đá là một dòng suối trong vắt, đoàn người dừng lại, người đi đầu cúi xuống uống một ngụm, uống xong thì cầm chiếc gậy trúc dựng một bên, gõ ba cái vào tảng đá.
Rồi ông ta đi dọc con đường, tiến vào ngôi nhà gỗ. Những người khác thì đứng yên tại chỗ không hề nhúc nhích, tôi tò mò nhìn về phía căn nhà, bên trong có ánh nến yếu ớt, còn có bóng của người mới đi vào đang hắt bên cửa sổ, đong đưa.
Tôi không khỏi mở to mắt hết cỡ mà nhìn, cửa sổ là loại khung gỗ dán giấy, đây là công nghệ cực kỳ cổ xưa, chỉ có trước thời dân quốc mới làm. Rốt cuộc căn nhà gỗ này được xây đã bao lâu rồi?
Mà cửa sổ căn nhà lại không hề có dấu hiệu hỏng hóc, thật quá quỷ dị. Không kìm được, tôi dùng thông linh thuật quan sát, nhưng không thấy gì bất thường.
Vài phút sau thì người ban nãy đi ra, bước dọc theo con đường, xuống núi. Sau đó, người tiếp theo cũng vốc ngụm nước uống, càm cây gậy gõ ba lần vào tảng đá, rồi đi lên. Vài phút sau cũng ra.
Đại khái chừng nửa tiếng đồng hồ thì đến lượt tôi, thiết nghĩ đừng nên uống nước suối thì hơn, ngộ nhỡ trong đó có bùa mê thuốc lú gì thì toi. Tôi chỉ cầm gậy trúc gõ ba lần vào tảng đá rồi đi về hướng căn nhà.
Căn nhà nằm trong một rừng cây rậm rạp, hai bên đường có xếp những chum rượu nhỏ, miệng chum bịt vải đỏ, còn dán cả hoàng phù.
Thứ này tôi đã được thấy trong cuốn sách cũ nó gọi là hồn kham. Nói thẳng ra nó là chum rượu, nhưng bên trong không chứa rượu mà là chứa thi hài, bùa chú được dán lên để giữ quỷ hồn.
"Nhưng sao lại nhiều đến vậy?"
Dọc hai bên đường lên căn nhà đều chất đầy hồn kham, ít cũng phải mấy trăm cái. Thời dân quốc rất thịnh hành thứ này, lúc ấy dân còn nghèo, chết không có chỗ chôn nên phát minh ra cách bỏ xác vào chum rượu.
Nhưng nói gì thì nói, hồn kham không phải là phương pháp an táng chính thống, nó ẩn chứa mối họa ngầm rất lớn.
Người ta nói, cứ những đêm thiên cẩu thực nguyệt, âm khí đại thịnh, quỷ hồn trong hồn kham hấp thu âm khí, sẽ biến thành lệ quỷ ra ngoài hại người.
Ở đây có nhiều hôn kham như vậy, chắc hẳn là trước kia có âm dương sư nào đó thu thập. Nhưng sao không xử lý luôn đi?
Tuy nói thiên cẩu thực nguyệt không xảy ra thường xuyên, nhưng chừng mười mấy năm cũng sẽ có một lần, thật là vô trách nhiệm.
Tôi đi thêm một đoạn thì nghe xa xa có tiếng bước chân, nói đúng hơn là tiếng ai đó đang nhảy, liền tăng tốc đuổi về hướng đó.
Một cảnh hiện ra khiến suýt thì tôi sợ vỡ tim, những người vào nhà trước đó đang xếp thành một hàng, nhảy từng bước về phía trước. Trong cuốn sách cũ có ghi, cách cương thi đi lại là nhảy. Hơn nữa, khoảng cách mỗi bước nhảy hoàn toàn giống nhau, bảy thước sáu phần tư.
Cộp, cộp, cộp...
Hai tay họ duỗi thẳng về phía trước, nhảy chồm chồm từng bước, bác gái ban nãy tôi hỏi chuyện cũng ở trong hàng ngũ, nhưng rõ ràng chính mắt tôi thấy bà ấy xuống núi rồi cơ mà, sao lại xuất hiện ở đây?
Lẽ nào...lẽ nào thứ xuống núi chỉ là hồn ma của bà ấy?
Tôi chạy tới giữ chặt tay bà ta, kêu lên: "Dì, dì ơi!"
Bác gái không hề phản ứng trước tiếng gọi, vẫn nhảy từng bước theo đám người về phía trước.
Tôi ngước nhìn xung quanh, chợt phát hiện mình đang ở giữa rừng cây, tối đen, chẳng phân biệt nổi phương hướng. Tại sao lại như thế này?
Tôi muốn bỏ chạy, nhưng biết chạy về hướng nào đây?
Căn nhà gỗ!
Tôi dùng thông linh thuật tìm kiếm khắp nơi, cuối cùng thấy được gian nhà gỗ, nó tọa lạc lẻ loi nơi đó, trong phòng ánh nến yếu ớt hắt ra.