Giữa trưa ngày thứ bảy, ước chừng một vạn lang kỵ đi ra từ đại doanh, bọn họ không mang theo khí giới công thành mà đi thẳng tới cửa cốc. Nhìn khói bụi ở đằng sau, hoa tiêu trên tường thành lập tức thổi kèn cảnh báo. Năm trăm binh lính đã ở trên tường thành sẵn sàng đón đầu quân địch, đội dự bị ở dưới thành cũng đã vào chỗ. Sau khi tiếng kèn vang lên, đám cung tiễn thủ chỉnh tề đặt bình tên ở cạnh chân, rút ra một mũi tên đặt vào cung, ánh mắt nhìn chằm chằm vào khói bụi đang lao tới.
Bởi vì chiều dài của tường thành chỉ có hạn, cho nên bố trí năm trăm người trên tường thành đã là cực hạn. Tuy nhiên, dựa theo lời của Tôn Khai Đạo, tường thành được Lục Phong Hầu dựng bằng đá này rất chắc chắn, không phải xây ở cửa cốc, mà đi sâu vào trong một dặm. Khoảng cách này không phải tùy ý chọn lựa, mà là sau một hồi suy tính mới quyết định. Tiến vào khe núi chừng một dặm là nơi hẹp nhất, khiến cho binh lực Mông Nguyên không thể thi triển ra được hết. Số lượng binh lính công thành cũng sẽ không nhiều. Mà phía sau tường đá này có không gian khá rộng lớn, dễ dàng cho việc đóng quân.
Ưu điểm lớn nhất của Tôn Khai Đạo, chính là suy tính mọi chuyện từ chi tiết nhỏ nhặt nhất.
Nhìn đội lang kỵ tràn vào khe núi, sắc mặt của binh lính trên tường thành đều ngưng trọng.
Nói không khẩn trương là giả.
Không ai có thể bình tĩnh được khi chuẩn bị chiến đấu, nhưng khi thực sự chiến đấu, thì bọn họ lại quên đi sợ hãi.
Lúc lá cờ phi lang màu vàng thêu vền đen xuất hiện trong tầm mắt của quân coi giữ, tràng diện trở nên cực kỳ yên tĩnh. Lúc kỵ binh dừng lại, vó ngựa vung vẩy lên bụi bặm.
Dưới lá cờ lớn, Khoát Khắc Đài Mông Liệt mặc áo giáp vào dùng Thiên Lý Nhãn lấy được từ người Hán cẩn thận quan sát quân coi giữ trên tường thành, thậm chí không buông tha vẻ mặt của những binh lính kia. Lúc y phát hiện trên khuôn mặt của bọn họ không có sự sợ hãi nào, y không nhịn được thở dài.
- Trận chiến này, chỉ sợ không dễ dàng.
Y không nhìn tường thành, cũng không nhìn địa hình, mà chỉ quan sát quân coi giữ.
- Triết Liệt Biệt
Mông Liệt chỉ tường đá bên kia, phân phó:
- Bảo tướng lĩnh của quân trông thành đi ra, ta có lời muốn nói với hắn.
Đại tướng Triết Liệt Biệt giục ngựa đi về phía trước, tới cách tường đá chừng năm mươi bước thì bị quân coi gữ bắn tên cảnh cáo. Y ngước cổ rống lên vài tiếng, tuy tiếng Hán không được sõi cho lắm, nhưng vẫn đủ hiểu.
- Bảo tướng quân của các ngươi đi ra, Đặc Cần có chuyện muốn hỏi.
Kỳ Lân đứng ở trên tường đá, lớn tiếng đáp:
- Hầu gia nhà ta nói, muốn đánh thì đánh, với đám mọi rợ các ngươi thì có gì phải nói. Các ngươi muốn trở lại thảo nguyên, thì phá được tường đá này rồi nói sau!
Triết Liệt Biệt giận dữ, xoay người trở về nói lại với Mông Liệt.
Mông Liệt nhíu mày, trầm mặc một lúc giục ngựa tự mình đi về phía trước. Mười mấy kỵ binh hầu cận giơ lá chắn bảo vệ, e sợ người Hán bắn lén.
- Tướng phòng giữ trên thành có phải là Phương tướng quân?
Khoát Khắc Đài Mông Liệt la lớn.
Y đợi trong chốc lát nhưng không thấy có người trả lời, tiếp tục hô:
- Đại Hãn mời ngươi tới Vương đình gặp mặt, có chuyện quan trọng cần thương lượng. Sao Phương tướng quân lại không khôn ngoan như vậy nhỉ? Đại Hãn gặp ngươi không phải vì chuyện người Tùy hay là người Mông Nguyên, mà là vì chính ngươi. Nếu ngươi nguyện ý mở cửa chính để ta dẫn quân đi qua, ta sẽ đồng hành cùng ngươi tới Vương đình!
- Nếu ngươi có điều gì không hiểu, ta có thể giải thích cho ngươi!
Hô xong một lúc lâu vẫn không có người đáp lại. Y định giục ngựa đi về phía trước, thì bỗng nhiên một mũi tên phá không mà tới. Thân binh giơ lá chắn không kịp phản ứng, một thị vệ bên cạnh Mông Liệt rùng mình một cái, giơ tay nắm lấy mũi tên đã tới gần mặt Mông Liệt. Mũi tên còn cách Mông Liệt một xích.
Mông Liệt liếc nhìn thị vệ kia tỏ ý khen ngợi, hộ vệ kia tùy tiện vứt mũi tên đi, vẻ mặt kiêu ngạo, dường như muốn nói, chỉ là một mũi tên mà thôi, có là gì.
Đang lúc y đắc ý, bỗng một thanh âm ong ong vang lên, là tiếng nỏ lớn. Sắc mặt của hộ vệ kia lập tức trắng bệch, ôm Mông Liệt rơi xuống ngựa. Phốc một tiếng, con ngựa của Mông Liệt bị nỏ lớn đóng đinh xuống đất.
Mông Liệt vẫn chưa hoàn hồn, không ngờ Phương Giải lại dùng tên nỏ để đáp lại lời của y. Cho dù hai quân giao chiến, cũng không có hành động dã man như vậy.
- Tướng quân nhà ta vẫn nói câu nói kia, muốn đánh thì đánh, không đánh thì biến.
Kỳ Lân hô lớn, sau đó ôm một tảng đá lớn từ tường thành ném xuống. Trời sinh y có thần lực, tảng đá hơn trăm cân nhưng vẫn ném xa được mấy chục mét. Lang kỵ vội vàng che chở Mông Liệt bỏ chạy, trên tường thành lập tức phát ra những tiếng cười to.
Người Mông Nguyên tấn công không cần trống trận mà dùng tù và sừng trâu thật lớn, thanh âm trầm thấp, nhưng có thể truyền đi được hơn mười dặm. Ngoại trừ binh mã hậu đội ở lại đề phòng, chừng ba vạn kỵ binh dời khỏi chiến mã yêu quý của mình, tay cầm loan đao lá chắn, hoặc là trường thương không thuân tay của người Hán, hoặc là khiêng thang, hoặc là đẩy chùy công thành đơn sơ chậm rãi đi tới gần thung lũng.
Bởi vì thung lũng hẹp và nhỏ, nên ba vạn lang kỵ chỉ có thể kéo dài giống như một con rồng đi vào. Lang kỵ một bên hành quân, một bên gõ loan đao vào giáp của mình. Bởi vì tường đá xây ở cách cổng thung lũng chừng một dặm, cho nên đội ngũ ba vạn người không thể cùng lúc tiến vào khe núi được. Bọn họ gõ đao vào áo giáp, là để nâng cao sĩ khí, cũng như tiễn đưa các chiến hữu phía trước.
Bì giáp của lang kỵ thảo nguyên khá là dày, cái này có liên quan tới thói quen sinh hoạt của bọn họ. Người trong thảo nguyên lúc ăn cơm đều dùng tay bốc, chủ yếu là ăn đồ nướng, rất ít ăn đồ ăn chay như cơm, mỳ. Ăn xong lau dầu mỡ vào bì giáp là xong. Dần dần có một lớp mỡ thật dầy bám trên bì giáp, dùng nước cũng không rửa được.
Bì giáp dính dầu trở nên vô cùng trơn trượt, nếu tên bắn tới có lực hơi yếu thì không thể xuyên phá. Tuy nhiên hiện tại lang kỵ phải gặp một khó khăn lớn, một là bọn họ chưa quen với chiến đấu công thành, hai là binh khí trong tay. Chiến đấu trên lưng ngựa loan đao tất nhiên là vũ khí lợi hại, nhưng chiến đấu trên mặt đất thì uy lực của nó lại kém đi. Lúc chiến đấu với tốc độ nhanh, độ cong của loan đao có thể tạo ra thương tổn rất lớn cho kẻ địch. Miệng vết thương mà loan đao tạo ra đều rất dài, mặc dù không phải là vết thương chí mạng nhưng vẫn sẽ vì mất máu quá nhiều mà chết. Trình độ chữa bệnh ở thời này còn hạn chế, rất khó để chữa trị những vết thương như vậy.
Nhưng chiến đấu trên mặt đất, loan đao quá ngắn, không bằng trường thương dài của người Hán. Cho dù so với hoành đao của bộ binh Đại Tùy, thì loan đao vẫn ngắn hơn. Đây là nhược điểm chí mạng khi lên chiến trường.