Để tìm ra vị tiên trưởng kia kỳ thực cũng không phải khó.
Vừa bước chân vào trấn, Thôi Tuần đã hỏi thăm về các đạo sĩ hoặc tăng nhân lợi hại quanh vùng, rồi theo độ tuổi và thói quen để loại trừ dần. Ba mươi năm trước, tiên trưởng kia đã hại chết cả thôn Ngưu Gia, vậy nên tuổi tác ắt hẳn phải trên năm mươi. Hơn nữa, thuật nối mệnh độc ác này nếu không có đạo hạnh thâm sâu thì không thể nào thực hiện được. Nhìn vào mức độ thuần thục khi thi triển thuật phép của tiên trưởng, e rằng tuổi lão ta còn vượt xa con số năm mươi.
Về phần thói quen, người dân trong thôn kể rằng tiên trưởng kia luôn miệng rao giảng nhân nghĩa đạo đức, thường khuyên người khác tích đức hành thiện. Lần theo thói quen này, cũng không khó để dò la.
Cuối cùng, Thôi Tuần tìm được một vị đạo sĩ sống ở đạo quán Tử Vân, được mệnh danh là Linh Hư Sơn Nhân. Nghe nói, vị Linh Hư Sơn Nhân này phong thái tiên phong đạo cốt, dù đã hơn trăm tuổi nhưng vẫn tóc bạc da hồng. Nhiều người ở trấn Đào Viên đều tín phụng lão ta. Sau khi Thôi Tuần tra hỏi thêm, phát hiện tín đồ của Linh Hư Sơn Nhân không chỉ ở trấn Đào Viên, mà còn trải rộng khắp Đại Chu, không ít quan lại quyền quý ở Trường An cũng một lòng sùng bái lão ta. Nhờ vậy, hương khói ở đạo quán Tử Vân vô cùng thịnh vượng, thiện nam tín nữ lui tới không ngớt.
Hằng năm, Linh Hư Sơn Nhân đều ra ngoài du ngoạn vài lần. Lần này Thôi Tuần đến đúng dịp, vị tiên trưởng hiện vẫn đang tọa trấn ở đạo quán Tử Vân.
Chủ quán trà kể lại những điều này với vẻ rất hào hứng. Ông cũng là tín đồ của Linh Hư Sơn Nhân, thậm chí còn tự hào lấy ra một tấm linh phù: “Đây là linh phù (lá bùa) tiên trưởng viết cho ta. Chỉ cần đốt thành tro, hòa vào nước uống, có thể kéo dài tuổi thọ, phúc đức vẹn tròn.”
Thôi Tuần liếc nhìn tấm linh phù, thấy trên đó ghi rõ ngày sinh tháng đẻ của chủ quán trà, còn dùng máu vẽ nên những đồ hình quái lạ không hiểu nổi. Đứng bên cạnh, Lý Doanh cũng chăm chú quan sát linh phù. Vì chủ quán không nhìn thấy nàng, nên nàng đưa tay chạm thử vào lá bùa. Nhưng vừa chạm đến, nàng cảm giác cả người như bị hút vào trong, giật mình kinh hãi, vội vàng rụt tay lại, lui về sau hai bước.
Thôi Tuần cũng giật mình, lo lắng nhìn về phía Lý Doanh. May thay, chủ quán trà không nhận ra điều bất thường, chỉ thấy tấm linh phù bỗng nhiên rời khỏi tay, nhẹ nhàng đáp xuống đất. Chủ quán trà nhặt lên, kinh ngạc hỏi: “Sao linh phù lại rơi thế nhỉ?”
Thôi Tuần nhíu mày. Tấm linh phù này, có điểm gì đó khác lạ.
Sau khi cảm tạ chủ quán, Thôi Tuần cùng Lý Doanh rời đi, trở về khách xá nơi họ trú chân.
–
Vừa bước vào phòng, Lý Doanh đã vội vã lên tiếng: “Đó không phải là linh phù trường thọ.”
Thôi Tuần hỏi: “Vậy là thứ gì?”
“Là phù chú giam giữ sinh hồn.”
Vốn là hồn phách, vừa rồi khi chạm vào linh phù, suýt nữa nàng đã bị hút cả hồn phách vào trong. Vì vậy, nàng dám khẳng định, một khi chủ quán trà uống tàn tro của tấm linh phù, chú văn sẽ thấm vào máu thịt, khiến linh hồn của ông ấy rơi vào tay Linh Hư Sơn Nhân. Đợi khi lão ta muốn lấy đi hồn phách, thì hồn phách sẽ lập tức rời khỏi thân xác.
Thôi Tuần trầm giọng: “Vậy chẳng phải muốn ông ta chết lúc canh ba, ông ta sẽ chết lúc canh ba?”
Lý Doanh gật đầu: “Hơn nữa, nghe nói không chỉ có mỗi mình ông ta nhận được tấm linh phù này. Không biết đã có bao nhiêu người từng nhận linh phù của Linh Hư Sơn Nhân và bao nhiêu người đã đốt linh phù, từ đó giao sinh mệnh của mình vào tay lão ta.”
“Lão giam giữ hồn phách của nhiều người thế này, xem ra dã tâm không nhỏ.”
Lý Doanh cũng nghĩ vậy. Nàng nhíu mày, nói: “Nếu không sớm tiêu diệt Linh Hư Sơn Nhân, e rằng sẽ còn nhiều người bị hại hơn nữa.”
Nàng cắn nhẹ môi, dường như có điều phân vân, nhưng cuối cùng vẫn lên tiếng: “Thập Thất lang, hay là chàng đến Lĩnh Nam trước đi?”
Thôi Tuần hỏi: “Vậy còn nàng?”
Lý Doanh có vẻ hơi ngượng ngùng: “Ta đã hứa với chàng sẽ cùng chàng đi Lĩnh Nam, nhưng có khi ta phải thất hứa rồi.”
Nàng từ từ cúi đầu: “Cũng như chàng không thể bỏ mặc Thiên Uy quân, ta cũng không thể làm ngơ trước những bách tính này. Ta… ta là công chúa Đại Chu.”
Công chúa nhận bổng lộc từ vạn dân, thì cũng phải trả lại cho vạn dân, làm tròn trách nhiệm của một công chúa – đó là điều mà Lý Doanh được dạy bảo từ thuở bé.
Dù nay nàng chỉ là một hồn phách, dù nàng từng là một công chúa bị phụ thân hy sinh, thì nàng vẫn là công chúa Đại Chu.
Giọng nàng dần trở nên nhỏ nhẹ, đôi mắt hoe đỏ, hiển nhiên trong lòng đầy áy náy, không dám ngẩng đầu lên nhìn Thôi Tuần: “Nếu ta theo chàng đến Lĩnh Nam mà bách tính gặp nạn, ta nghĩ… cả đời này ta sẽ không thể an lòng.”
Thôi Tuần điềm tĩnh nói: “Nàng muốn ở lại cứu họ.”
Lý Doanh cúi đầu, khẽ gật nhẹ: “Ta vốn dĩ chẳng phải người có chí lớn. Ngày xưa nguyện vọng của ta chỉ là mãi mãi được ở bên a gia và a nương. Giờ đây, nguyện vọng của ta là mãi mãi được ở bên chàng. Ta không muốn làm nữ trung hào kiệt như công chúa Khánh Dương, cũng chẳng muốn được lưu danh sử sách như công chúa Bình Nguyên. Ta chỉ muốn cùng người ta yêu sống bên nhau mãi mãi. Ta chỉ là một công chúa Đại Chu tầm thường, nhưng ta không thể dùng sự tầm thường ấy làm cái cớ để thờ ơ với nỗi khổ của bách tính. Ta cũng không thể chỉ chăm lo cho tình cảm cá nhân mà để mặc hàng vạn sinh linh rơi vào bàn tay tà đạo. Nếu làm vậy, ta sẽ thẹn với danh phận công chúa, thẹn với mười sáu năm được nuôi dưỡng.”
Nàng càng nói, đầu càng cúi thấp, cuối cùng vẫn không thể giữ lời hứa của mình, không thể đi Lĩnh Nam cùng Thôi Tuần.
Hai tay nàng vô thức siết chặt lại, trong lòng đầy đau khổ vì thất hứa. Nhưng bên tai bỗng vang lên giọng nói trầm thấp của Thôi Tuần: “Minh Nguyệt Châu, nàng ngẩng đầu lên, nhìn ta đi.”
Lý Doanh ngây người, từ từ ngẩng lên, nhìn thấy bóng hình mình phản chiếu trong đôi mắt sâu thẳm như mực của hắn. Nàng nhìn hắn, hắn cũng nhìn nàng. Giọng hắn dịu dàng vô cùng: “Minh Nguyệt Châu, công chúa Khánh Dương giúp phụ hoàng khởi binh, ngang dọc chiến trường, quả là nữ trung hào kiệt. Công chúa Bình Nguyên vào triều nghị chính, ba triều tể tướng đều xuất thân từ tay nàng, đáng để lưu danh sử xanh. Nhưng ai nói nữ trung hào kiệt hay lưu danh sử xanh mới là có chí lớn? Nàng vì bách tính mà vẫn luôn canh cánh trong lòng, trong mắt ta, nàng chính là công chúa Đại Chu xứng danh.”
Lý Doanh lẩm bẩm: “Ta… xứng đáng thật sao?”
Thôi Tuần gật đầu: “Nàng hoàn toàn xứng đáng.”
“Nhưng ta… không thể cùng chàng đi Lĩnh Nam được…”
Thôi Tuần mỉm cười nhè nhẹ: “Không, nàng vẫn có thể đi Lĩnh Nam với ta.”
Lý Doanh ngẩn người, Thôi Tuần nói: “Bởi vì ta cũng định ở lại, giúp nàng cứu những bách tính này.”
Lý Doanh kinh ngạc: “Nhưng chàng gấp rút đến Lĩnh Nam, giúp ta chẳng phải sẽ làm mất thời gian lắm sao?”
“Không giúp mới là mất thời gian.” Thôi Tuần đáp: “Thôn Ngưu Gia nằm trên đường đi qua núi Vạn Hác, Linh Hư Sơn Nhân đã bày trận pháp ở thôn Ngưu Gia, khiến ta không thể lên núi. Nếu không phá được tà thuật, ta chỉ có thể vòng qua đường khác đến Củng Châu, tốn công tốn sức. Nhưng nếu phá được tà thuật, ta có thể đến nơi chỉ trong một ngày. Nên không giúp mới là làm mất thời gian.”
Lý Doanh do dự giây lát: “Thật sự không làm mất thời gian chứ?”
Thôi Tuần lắc đầu: “Không.”
Thấy hắn chắc chắn, Lý Doanh mới hơi yên lòng, nàng mỉm cười: “Được, vậy đến lúc giải cứu xong bách tính, chúng ta lại cùng đi Lĩnh Nam.”
Thôi Tuần nhìn nàng, khóe môi cong lên: “Ừ.”
–
Khi Thôi Tuần và Lý Doanh đang bàn bạc, tại đạo quán Tử Vân, Linh Hư Sơn Nhân đang nhập thiền bỗng chậm rãi mở mắt.
Linh Hư Sơn Nhân, râu tóc bạc trắng, dung mạo hiền từ, phong thái tiên phong đạo cốt. Lão lầm bầm: “Linh phù của Trương Tứ lang bị động vào sao?”
Một đệ tử đứng hầu bên cạnh cẩn trọng hỏi: “Sư phụ, có người động đến linh phù ạ?”
Linh Hư Sơn Nhân lắc đầu: “Không phải người, là hồn.”
“Hồn ư?”
Linh Hư Sơn Nhân lại nhắm mắt, tập trung cảm nhận khí tức từ linh phù. Một lát sau, lão đột nhiên mở bừng mắt, vẻ mặt không giấu nổi kinh ngạc: “Hóa ra là nàng.”
Đệ tử hỏi: “Sư phụ, đó là ai?”
Nhưng Linh Hư Sơn Nhân chỉ lặp lại bốn chữ: “Hóa ra là nàng.” Hồi lâu sau, thần sắc lão thay đổi, miệng lẩm bẩm: “Nếu là nàng, hẳn là ý trời giúp ta.”
Đệ tử không hiểu: “Sư phụ, rốt cuộc hồn ma đó là ai?”
Gương mặt Linh Hư Sơn Nhân ánh lên niềm vui: “Ngươi không cần biết nàng là ai, chỉ cần hiểu rằng nàng là một hồn ma có thể giúp ta thoát khỏi vòng sinh tử.”
Đệ tử bối rối, Linh Hư Sơn Nhân mỉm cười nói: “Ngươi từng thấy hồn ma nào được bốn vạn ngôi chùa thờ Phật khắp cả nước cung phụng chưa? Lại từng thấy hồn ma nào khiến toàn bộ tăng lữ trong thiên hạ đồng loạt niệm chú vãng sinh chưa? Lợi ích từ hồn ma này, so với một vạn Trương Tứ lang còn đáng giá hơn nhiều.”
Đệ tử thốt lên: “Sư phụ, rốt cuộc là loại hồn ma gì mà có năng lực lớn như vậy?”
Linh Hư Sơn Nhân hồi tưởng lại tiết Hàn Thực cách đây ba mươi năm, khi nàng đứng trên xích đu, dung quang chói lọi chiếu khắp nhân gian. Dù lão đã sớm đoạn tình tuyệt dục, nhưng mỗi khi nghĩ đến, trái tim vẫn không khỏi xao xuyến. Lão nói: “Đó là viên minh châu rực rỡ nhất của Đại Chu.”
Đệ tử sững người, Linh Hư Sơn Nhân lại thở dài, dường như nhớ đến điều gì: “Đệ tử xuất sắc nhất của ta cũng đã thất bại trước viên minh châu ấy. Nếu không, có hắn, làm gì đến lượt những kẻ ngốc nghếch như các ngươi đứng vững ở đây.”
Đệ tử bị mắng đến bối rối: “Sư phụ, đệ tử sẽ lập tức đi bắt hồn ma đó, giúp sư phụ siêu thoát sinh tử.”
“Chỉ dựa vào ngươi?” Linh Hư Sơn Nhân bật cười lắc đầu: “Để ta, đích thân gặp nàng một lần.”
–
Nhưng chưa kịp để Linh Hư Sơn Nhân gặp Lý Doanh, Thôi Tuần đã đến đạo quán Tử Vân thăm dò thực hư.
Đạo quán Tử Vân tọa lạc giữa núi non trùng điệp, bao quanh bởi tùng bách xanh rì. Khắp nơi đều được chạm khắc họa tiết mây trời và tiên hạc, biểu thị ý nghĩa thiên nhân hợp nhất. Từ xa trông vào, nơi này tựa như một đạo quán hương khói thịnh vượng, thiện nam tín nữ quỳ gối thành kính trước điện Tam Thanh.
Thôi Tuần cũng bước vào điện Tam Thanh, quỳ xuống bái lạy. Hắn ra tay hào phóng, tiền hương dầu vừa dâng lên là một thỏi vàng, khiến tiểu đạo sĩ không khỏi líu lưỡi. Nhân lúc đó, Thôi Tuần đề nghị muốn gặp Linh Hư Sơn Nhân. Tiểu đạo sĩ đáp: “Hôm nay sư phụ đang giảng đạo tại đàn Vân Trạch. Nếu cư sĩ muốn nghe, ta có thể dẫn đường.”
Thôi Tuần đương nhiên đáp rằng muốn nghe. Tiểu đạo sĩ liền đưa hắn đến đàn Vân Trạch. Đàn Vân Trạch nằm phía sau đạo quán Tử Vân, không gian rộng lớn, có thể chứa đến vạn người. Khi Thôi Tuần đến, đã có không ít tín đồ ngồi xếp bằng dưới đất lắng nghe giảng đạo. Hắn còn thấy chủ quán trà cũng đang đắm chìm trong buổi thuyết pháp của Linh Hư Sơn Nhân.
Thôi Tuần bèn tìm một chỗ giữa nhóm tín đồ để ngồi xuống. Hắn ngẩng đầu quan sát Linh Hư Sơn Nhân. Vị này mặc đạo bào xám thêu họa tiết tiên hạc mây lành, trông như người trung niên ngoài bốn mươi, hiền từ nhân hậu.
Buổi thuyết giảng chỉ xoay quanh chuyện khuyên người tích cực hành thiện, nên chẳng khiến Thôi Tuần mảy may hứng thú. Hắn đảo mắt nhìn quanh, chợt phát hiện ở góc đàn có treo một chiếc đèn lồng.
Chiếc đèn ấy không phải kiểu lồng đèn thường thấy ngày nay, mà là một chiếc đèn bằng đồng xanh, trên thân đèn khắc những phù văn và hoa văn kỳ dị. Những đường nét này thoạt nhìn có chút quen thuộc…
Trên đàn, Linh Hư Sơn Nhân đã giảng đến “tam chướng”. Theo Đạo giáo, tam chướng gồm: ma chướng, nghiệp chướng và tai chướng. Từ tam chướng mà sinh ra mười điều ác, đây chính là cội nguồn của mọi khổ đau. Chỉ khi phá bỏ được tam chướng, con người mới có thể đắc đạo.
Nhưng thế nhân phàm tục, có mấy ai vượt qua được tam chướng?
Khi Linh Hư Sơn Nhân nói đến đây, Thôi Tuần bỗng nhớ ra vì sao những phù văn và hoa văn trên chiếc đèn đồng ấy lại quen thuộc đến vậy. Những đường nét đó giống hệt tấm “bùa khóa hồn” mà Linh Hư Sơn Nhân đưa cho chủ quán trà.