Mục lục
Đêm Trăng Năm Thứ Ba Mươi - Vân Hương Thanh Nịnh
Thiết lập
Thiết lập
Kích cỡ :
A-
18px
A+
Màu nền :
  • Màu nền:
  • Font chữ:
  • Chiều cao dòng:
  • Kích Cỡ Chữ:

Thôi Tuần nhếch môi, hờ hững nói: “Đấu võ thì đấu võ. Có điều, nói rõ trước, nếu ngươi thua, đừng khóc lóc chạy về tìm Tán phổ của các ngươi.” [1]

[1] “Tán phổ” (贊普) dùng để chỉ vua của Thổ Phồn (Tây Tạng thời cổ). Đây là danh xưng dành cho quốc vương của vương triều Thổ Phồn, tương tự như “hoàng đế” hay “đại hãn” ở các nền văn hóa khác.

Lời này chẳng khác nào trả đũa câu khiêu khích vừa rồi của gã Hồ thương. A Man nghe vậy, càng thêm hiểu rõ tính tình y. Thiếu niên có dung mạo đẹp như hoa sen này tuyệt đối không phải người rộng lượng, trái lại còn rất thù dai.

Hồ thương suýt nữa thì tức đến phun máu, gằn giọng quát: “Nam nhi Thổ Phồn bọn ta lớn lên trên lưng ngựa, sao có thể thua ngươi được?”

Nghe khẩu khí, xem ra cuộc đấu võ này sẽ quyết định thắng bại trên lưng ngựa.

Hồ thương giơ tay chỉ lên trời: “Thấy không? Ai cưỡi ngựa bắn rơi đại nhạn trên trời trước thì kẻ đó thắng!”

Thôi Tuần cười nhạt, gật đầu dứt khoát: “Được thôi.”

Dưới lôi đài, quần chúng tự động dạt sang hai bên, nhường ra một khoảng đường rộng.

Hồ thương là người ra tay trước, cưỡi ngựa lao vút đi, vung roi thúc ngựa chạy băng băng. Gã giương cung lắp tên, nhắm chuẩn một con nhạn lớn bay ngang trời, rồi buông tay. Mũi tên như sao xẹt lao thẳng lên cao, cắm phập vào thân con chim. Gã Hồ thương ghìm cương, hất cằm về phía Thôi Tuần, hừ lạnh: “Tiểu tử, đến lượt ngươi đấy!”

Nói đoạn, gã xuống ngựa, tiện tay ném cây cung cho Thôi Tuần. Nhưng y chẳng buồn đưa tay đón, mặc kệ cây cung rơi bịch xuống đất. Hồ thương bị bất ngờ, rồi bật cười ha hả: “Sợ rồi à?”

Thôi Tuần thản nhiên đáp: “Cây cung này không ổn.”

Ánh mắt y lướt qua con ngựa của đối phương: “Ngựa này cũng không ổn.”

Hồ thương cứng đờ người, sau đó vừa thẹn vừa giận, quát: “Cây cung này là giác cung của Thổ Phồn ta, nhẹ nhưng chắc chắn, vậy mà ngươi dám chê là không ổn? Ngựa của Thổ Phồn ta, khỏe mạnh béo tốt, so với ngựa Trung Nguyên không biết tốt hơn bao nhiêu lần!”

Thôi Tuần lười đôi co với gã, chỉ cất tiếng gọi: “Tào Ngũ!”

“Đây!” Tào Ngũ hăng hái vỗ lên lưng bạch mã của Thôi Tuần. Con ngựa lập tức phi như bay, mang theo cây thiết thai cung lao về phía Thôi Tuần. Lúc đến gần y, bạch mã lại thong thả dừng bước, ngoan ngoãn cúi đầu để mặc y vỗ về.

Thôi Tuần vuốt nhẹ đầu ngựa, khẽ cười: “Cung ngựa của Trung Nguyên tốt hơn hay của Thổ Phồn tốt hơn, thử rồi sẽ biết.”

Thôi Tuần tay nắm chặt cây cung sắt, nhẹ nhàng tung mình lên lưng ngựa. Hôm nay y không mặc khôi giáp mà chỉ vận trường bào tay bó màu trắng, cổ tròn như Tào Ngũ và những người khác, trên đầu đội một chiếc khăn quấn xanh đen. Y phục giản đơn chẳng chút cầu kỳ, nhưng khi khoác lên người lại toát lên phong thái tiêu sái, tuấn mỹ vô song. Y cầm cung sắt trong tay, ngửa đầu cười vang, dáng vẻ ngông nghênh hào sảng của thiếu niên anh tài khiến bao tiểu nương tử trong thành đều không khỏi đỏ mặt thẹn thùng.

Bạch mã lao vun vút như gió cuốn. Thôi Tuần cầm chắc cung trong tay phải, tay trái rút một mũi tên lông tên từ túi đựng tên, kéo căng dây cung, đặt tên vào. Trên không, một đàn nhạn đang đang xẹt qua tầng mây. Y nheo mắt, kéo cung đến cực hạn rồi thả tay. Chỉ nghe “vút” một tiếng, mũi tên xé gió lao đi, xuyên thẳng bầu trời, bắn trúng đàn nhạn, trong chớp mắt, mũi tên xuyên qua thân nhạn, khiến nó rơi xuống mặt đất.

Một dân phu nhặt con nhạn lên, kinh hô: “Là hai con nhạn!”

Một mũi tên bắn trúng hai con nhạn, hiển nhiên Thôi Tuần đã thắng!

Gã thương nhân người Hồ sững sờ, Thôi Tuần cười nhạt: “Thế nào?”

Dân chúng Đại Chu cũng rộn ràng reo hò: “Năm trăm lượng vàng! Năm trăm lượng vàng!”

Hồ thương sực tỉnh, vội la lên: “Không tính! Không tính!” 

Tào Ngũ giận dữ: “Ngươi định lật lọng?”

Hồ thương quay sang Thôi Tuần, nói: “Ngươi bắn trúng hai con nhạn một lúc chẳng qua là nhờ vào may mắn! Chúng ta tái đấu một lần nữa đi!”

“Ồ? Tái đấu thế nào?”

Hồ thương liếc nhìn mấy vò rượu Thanh Khương trong đoàn thương đội: “Thế này đi, mỗi người một vò rượu, nếu ngươi uống cạn rồi vẫn có thể bắn trúng hai con nhạn, ta liền nhận thua!”

Thứ rượu này chỉ cần uống hết một vò đã đủ để người ta say mèm, đừng nói bắn trúng hai con nhạn, ngay cả đứng vững có lẽ cũng không làm nổi. Đây rõ ràng là quỷ kế của Hồ thương, nhưng Thôi Tuần chẳng chút do dự, chỉ gật đầu: “Được! Nhưng đừng có nuốt lời đấy!”

Hồ thương mở nắp vò rượu, ngửa cổ tu ừng ực. Tửu lượng của gã không tệ, uống cạn một vò mà vẫn không hề có dấu hiệu say. Lên ngựa, giương cung, bắn, một con nhạn lập tức rơi xuống. Gã ghìm cương, hất hàm nói với Thôi Tuần: “Đến lượt ngươi.”

A Man có chút lo lắng, hỏi nhỏ Tào Ngũ: “Tửu lượng của Vọng Thư a huynh thế nào? Có khi nào vừa uống đã say không?”

Tào Ngũ cũng thấp thỏm chẳng kém: “Tửu lượng của Thập Thất lang cũng không tệ, nhưng chưa từng thử cưỡi ngựa bắn tên sau khi uống rượu… Hừ, chó người Hồ này, giảo hoạt thật!”

Giữa lúc mọi người còn đang lo ngại, Thôi Tuần đã mở nắp vò rượu Thanh Khương, hương nồng sực lên, giữa mùi rượu còn phảng phất mùi hương lúa mạch. Y hơi nhướn mày: “Rượu ngon.”

Hồ thương đắc ý nói: “Dĩ nhiên! Đây là mỹ tửu trứ danh của Thổ Phồn bọn ta, so với rượu Trung Nguyên các ngươi cũng chẳng hề thua kém!”

Thôi Tuần ngửa cổ uống một ngụm lớn, sau đó đặt xuống vò rượu, đưa tay quệt đi vệt rượu nơi khóe môi, khóe môi khẽ nhếch lên, nở một nụ cười nhàn nhạt: “Thổ Phồn có mỹ tửu, Trung Nguyên cũng có mỹ tửu, bách tính hai bên vốn có thể giao thương, cùng hưởng lợi lộc, người Thổ Phồn được uống rượu Trung Nguyên, người Trung Nguyên cũng có thể thưởng thức rượu Thổ Phồn. Vậy mà có kẻ chỉ vì tư lợi cá nhân, ép bách tính lâm vào cảnh chiến hỏa triền miên. Đáng buồn! Đáng hận!”

Hồ thương đến từ Thổ Phồn bỗng khựng lại. Thôi Tuần không nói thêm gì nữa, chỉ ngửa cổ, nâng vò rượu lên uống cạn. Trời trong gió nhẹ, ráng mây rực đỏ như lửa. Thiếu niên áo trắng nheo mắt, nét cười phảng phất nơi chân mày, khóe mắt. Y ngửa cổ, từng ngụm từng ngụm rượu trôi xuống, toát lên vẻ phóng khoáng bất kham. Khi vò rượu cạn sạch, y vung tay ném mạnh sang bên, vò rượu vỡ nát thành từng mảnh.

Thôi Tuần ngửa đầu cười lớn hai tiếng, huýt sáo một hơi. Con bạch mã lập tức lao vút tới, mang theo cả thiết thai cung. Y lật người lên ngựa, vững tay cầm cung, rút ra một mũi tên lông chim, nheo mắt, giương cung căng tròn như trăng rằm. Mũi tên rít gió bay vút lên không trung, xuyên qua hai con nhạn lớn, khiến chúng rơi thẳng xuống đất. 

Đám đông xung quanh đồng loạt hò reo vang dội. Hồ thương đến từ Thổ Phồn trợn mắt há mồm, Thôi Tuần ghìm chặt cương ngựa, ánh mắt mang theo đôi phần men say, hỏi: “Thế nào?”

Lần này, gã Hồ thương người Thổ Phồn thua tâm phục khẩu phục, bèn hỏi: “Các hạ thân thủ cao cường, xin hỏi tôn tính đại danh?”

“Tôn tính đại danh?” Thôi Tuần men say dâng lên, hai gò má đỏ hây hây như mây tía: “Mỗ chẳng qua chỉ là một tiểu tốt ở Thanh Châu mà thôi.”

“Tiểu tốt mà có bản lĩnh thế này sao?”

Thôi Tuần nửa cười nửa không, nhìn thẳng vào gã: “Thanh Châu có hàng chục vạn người Hán, Đại Chu có hàng triệu người Hán. Người như mỗ, ở Đại Chu chỉ như một hạt cát giữa biển trời bao la. Chỉ cần con người còn, sơn hà còn, thì ngay cả lũ dê hai chân cũng có thể xua đuổi đám man di người Hồ các ngươi!”

Đám tùy tùng của Hồ thương người Thổ Phồn chỉ nghe hiểu hai chữ “man di“, lập tức nổi giận, định xông lên. Nhưng Hồ thương kia lại giơ tay ngăn cản. Gã trầm mặc giây lát, sau cùng khẽ gật đầu: “Đa tạ, thụ giáo.”

Nói rồi, gã sai người dâng lên năm trăm lượng hoàng kim. Thôi Tuần chẳng buồn liếc mắt nhìn lấy một lần, chỉ phất tay bảo Tào Ngũ mang đi, chia cho những người dân nghèo khó. Sau đó, y ghìm cương, chậm rãi phóng ngựa về hướng quân doanh, bóng dáng dần khuất trong ánh tịch dương mờ nhạt.

Mãi về sau, Tào Ngũ và những người khác mới biết, thì ra gã Hồ thương người Thổ Phồn kia chính là Xích Tán, con trai thứ hai của Tán phổ nước Thổ Phồn. Mười năm trước, Thổ Phồn bại trận, từ đó phải dâng cống nạp, giao hảo với Đại Chu. Nhưng vương tử Xích Tán lại không phục, lần này tìm đến Thanh Châu chẳng qua là để dò xét thực hư. Không ngờ lại bại dưới tay Thôi Tuần. Qua chuyện này, gã mới hiểu rằng “thiên ngoại hữu thiên, nhân ngoại hữu nhân”. [2] Một thiếu niên mười lăm tuổi đã có bản lĩnh như thế, huống hồ cả Đại Chu?

[2] trên trời còn có trời cao hơn, trên người còn có người giỏi hơn.

Từ đó về sau, vương tử Xích Tán thu lại thói hung hăng, suốt đời không dám xâm phạm Đại Chu nữa.

Có điều, những chuyện này hiện giờ Tào Ngũ và đám binh sĩ đều chưa hay biết. Cả đoàn người phi ngựa thật nhanh, cuối cùng cũng kịp trở về Thiên Uy quân. Ai nấy đều vội vàng rửa mặt qua loa, lập tức ngả lưng nghỉ ngơi, tránh lỡ mất buổi điểm danh ngày mai.

Sáng hôm sau, lại xảy ra một chuyện phiền phức.

Chưa đến canh năm, A Man đã định sang tìm a huynh. Hôm nay, nàng sẽ cùng nhóm nương tử nhà họ Triệu khởi hành về Trường An, nên muốn trò chuyện với a huynh một lúc trước khi đi. Thế nhưng, khi đến trước phòng, nàng lại thấy cửa gỗ mở toang, giữa a huynh và Tào Ngũ dường như đang xảy ra tranh cãi.

A Man tiến lại gần, nghe Thịnh Vân Đình trách mắng Tào Ngũ: “Lúc Thập Thất lang uống rượu, sao đệ không ngăn cản nó? Lại để nó say đến mức này?”

Tào Ngũ cúi đầu ủ rũ, vẻ không cam tâm, nhỏ giọng lẩm bẩm: “Ai bảo đám Hồ cẩu đó quá ngông cuồng…”

“Còn dám cãi! Vậy đệ đi gọi Thập Thất lang dậy cho ta!”

Thấy hai người càng cãi càng to, A Man vội can ngăn: “A huynh, huynh và Tào Ngũ đang làm gì vậy?”

Tào Ngũ thấy nàng thì như vớ được cứu tinh: “A Man muội tử, muội đến đúng lúc lắm! Không ngờ rượu Thanh Khương hôm qua lại thâm hậu như vậy, đến giờ Thập Thất lang vẫn chưa tỉnh, thế nào cũng không chịu dậy. Chỉ còn chút nữa là đến giờ điểm danh rồi, nếu chậm trễ, quân pháp xử trí, lúc đó phải làm sao đây?”

A Man nghe vậy, không khỏi kinh ngạc. Không chịu dậy? Bốn chữ này mà lại có thể liên quan đến Thôi Tuần sao?

Từ khi đến đây, A Man chưa từng thấy Thôi Tuần vắng mặt trong buổi điểm danh nào. Có khi Tào Ngũ còn than thở rằng canh năm điểm danh quá sớm, nhưng Thôi Tuần chưa từng oán thán lấy một lời. Một người tự giác như y… mà cũng có thể nằm ì không chịu dậy ư?

A Man lén nhìn vào trong phòng, chỉ thấy trên chiếc giường đơn sơ, Thôi Tuần quấn chăn kín người, ngủ mê mệt. Có lẽ y còn chưa tỉnh rượu, đôi gò má vẫn phớt hồng như hoa đào, sắc đỏ ửng phản chiếu trên làn da trắng tựa bạch ngọc, khiến dung mạo y càng thêm phần mơ màng thoát tục. A Man lặng người trong thoáng chốc.

Chỉ đến khi Tào Ngũ lên tiếng gọi, nàng mới hoàn hồn: “A Man muội tử, hay là muội thử đánh thức Thập Thất lang đi?”

Thịnh Vân Đình nghe vậy, suýt nữa tức cười đến ngã ngửa: “Ngay cả đệ còn gọi không được, đệ nghĩ muội muội của ta có thể đánh thức Thập Thất lang sao?”

Dứt lời, hắn sải bước đến bên giường, đẩy vai Thôi Tuần: “Thập Thất lang, dậy mau, Quách soái sắp điểm danh rồi!”

Thôi Tuần bị lay tỉnh, mí mắt hơi hé, trong đôi đồng tử vẫn còn lờ mờ chút men say. Y nhìn Thịnh Vân Đình một cái, rồi nhắm mắt lại, ngủ tiếp.

Thịnh Vân Đình dở khóc dở cười: “Thập Thất lang, dậy ngay! Trễ giờ sẽ bị phạt hai mươi quân côn đấy!”

Thế nhưng, Thôi Tuần dường như rất khó chịu vì bị quấy rầy giấc ngủ, bèn kéo chăn trùm kín đầu, quay mặt vào tường, không buồn để ý đến hắn. Thái độ hệt như một thiếu niên mười lăm tuổi bình thường, biết làm nũng, biết giận dỗi, vẫn còn có chút trẻ con.

A Man chưa bao giờ thấy Thôi Tuần như thế, nàng không khỏi ngạc nhiên đến ngây ngẩn. Nhưng với Thịnh Vân Đình và Tào Ngũ, cảnh tượng này lại chẳng lạ lẫm gì. Thịnh Vân Đình thấy gọi mãi không được, đành thở dài: “Thôi vậy, Thập Thất lang, đệ cứ ngủ tiếp đi.”

Tào Ngũ vội hỏi: “Thế còn điểm danh thì sao?”

“Cứ nói với tướng quân rằng Thập Thất lang phát hiện một đoàn thương nhân người Thổ Phồn đáng ngờ trong chợ, đã đuổi theo điều tra, giờ vẫn chưa quay về.”

“Cách này… có ổn không?”

“Ổn, cứ vậy đi.”

Nói xong, Thịnh Vân Đình cũng không quên dặn dò A Man: “A Man, muội trông Thập Thất lang giúp ta.” Rồi cùng Tào Ngũ vội vã đi đến nơi điểm danh.

Thịnh Vân Đình và Tào Ngũ rời đi rồi, A Man cũng không biết phải chăm sóc Thôi Tuần thế nào, hoặc có lẽ, y căn bản chẳng cần nàng chăm sóc. Y kéo chăn trùm kín, ngủ say sưa, đến cả mặt mũi cũng chẳng lộ ra ngoài. Nàng mím môi, nhìn người đang cuộn tròn trong chăn, khóe môi bất giác cong lên. A huynh từng nói, quen biết Thôi Tuần lâu ngày sẽ nhận ra, y không hề lạnh lùng như vẻ bề ngoài, thậm chí đôi khi còn khá đáng yêu. Khi ấy, nàng còn cho rằng a huynh chỉ đùa vui, nhưng lúc này đây… có lẽ là thật.

Thôi Tuần cứ thế ngủ thẳng đến gần giờ Ngọ. Y ngủ rất yên tĩnh, đến mức A Man không khỏi nghi ngờ liệu y có bị ngạt thở trong chăn hay không. Nàng ngồi xếp bằng dưới đất, buồn chán lật xem binh thư trên bàn. Những quyển sách này hẳn đều là của Thôi Tuần, trên đó có bút tích của y, ghi chép những chú giải và quan điểm riêng. Nét chữ của y rất đẹp, là lối hành thảo phải không nhỉ? Nét bút ấy dù bay bổng nhưng lại rất mạnh mẽ, tràn đầy khí thế. Chỉ tiếc, nàng biết không nhiều chữ, nên xem cũng chẳng hiểu mấy.

Nhận ra Thôi Tuần sắp tỉnh, A Man bỗng có chút e ngại. Nàng vội đứng dậy, nhanh chóng rời khỏi phòng, nhưng đi loanh quanh một hồi lại chẳng nỡ rời xa. Nàng đang lưỡng lự thì bắt gặp a huynh cùng Tào Ngũ trở về. Trên tay a huynh còn cầm theo một chiếc bánh hồ. Nhìn thấy nàng, hắn liền hỏi: “A Man, Thập Thất lang đã tỉnh chưa?”

“Chắc là… tỉnh rồi.”

Thịnh Vân Đình gật đầu: “A Man, muội sắp lên đường rồi nhỉ? Ta vào đưa bánh cho Thập Thất lang trước, cả sáng nay cậu ấy chưa ăn gì, hẳn là đói lắm rồi. Chờ lát nữa ta ra tìm muội.”

“Được.” Nàng chần chừ một chút rồi hỏi: “A huynh, Vọng Thư a huynh không đi điểm danh, liệu có sao không?”

“Không sao, ta với Tào Ngũ đã ứng phó xong rồi.”

Dứt lời, Thịnh Vân Đình cùng Tào Ngũ đi vào phòng. A Man nghe thấy ba người trong đó nói chuyện, nhưng chưa kịp nghe rõ thì bỗng thấy một người đàn ông vận khôi giáp, khí phách uy vũ sải bước đến gần.

Nàng sững người, còn người kia khi thấy nàng thì dừng lại, quan sát kỹ lưỡng một hồi rồi cười nói: “Cháu là A Man, muội muội của Vân Đình, đúng không?”

“Dạ…”

Người đàn ông kia bật cười: “Mỗ là chủ soái Thiên Uy quân, Quách Cần Uy.”

Quách Cần Uy? Nghe xong cái tên này, A Man theo bản năng định hành lễ, nhưng bị ông ngăn lại: “Đừng hành lễ, trong Thiên Uy quân, mọi người đều như huynh đệ một nhà.”

Ông lại hỏi: “A huynh của cháu đâu?”

A Man chỉ về phía phòng: “Trong đó ạ.”

Quách Cần Uy gật đầu, đẩy cánh cửa gỗ khép hờ rồi bước vào. Cùng lúc đó, tiếng nói chuyện trong phòng lập tức im bặt.

Thoạt đầu A Man còn lấy làm lạ, nhưng ngay sau đó liền hiểu ra. Vừa rồi a huynh và Tào Ngũ đã lừa Quách Cần Uy, bảo rằng Thôi Tuần đã đuổi theo đoàn thương buôn Thổ Phồn. Vậy nếu ông nhìn thấy Thôi Tuần ở đây, chẳng phải chuyện sẽ bại lộ ngay sao?

Nàng bực bội đến mức tự cốc vào trán mình. Sao nàng lại không nghĩ đến điều này sớm hơn chứ!

Nếu sớm nghĩ ra, thể nào nàng cũng phải ngăn Quách Cần Uy lại.

Nàng vội bước tới bên cửa sổ, lén nhìn vào trong, quả nhiên thấy ba người Thịnh Vân Đình đều quỳ rạp xuống đất, đầu cúi thấp, bộ dạng chẳng dám thở mạnh.

Quách Cần Uy trông có vẻ rất tức giận: “Ta còn đang lo lắng cho Thập Thất lang, có ý sai các cậu đi tìm nó, không ngờ các cậu lại liên thủ dối gạt ta!”

Thôi Tuần rõ ràng đã tỉnh rượu, y lộ vẻ hổ thẹn: “Quách soái, tại cháu tham ngủ làm lỡ mất giờ điểm danh, xin ngài cứ xử phạt theo quân pháp.”

Thịnh Vân Đình vội lên tiếng: “Quách soái, cháu nói dối, muốn phạt thì phạt cháu đi.”

Tào Ngũ cũng nói: “Quách soái, chuyện này không liên quan đến hai người họ. Tại hôm qua cháu kéo Thập Thất lang ra chợ phường uống rượu, nếu không cậu ấy đã chẳng say đến mức này. Hai mươi quân côn đó cứ để cháu chịu cho!”

Quách Cần Uy tức đến bật cười: “Xem ra quân côn của Thiên Uy quân ta vẫn chưa đủ nặng, nên mới có kẻ tranh nhau chịu phạt thế này! Đừng giành nữa, không ai được thoát cả!”

Nghe đến đây, tim A Man thắt lại. Nàng chẳng buồn suy nghĩ thêm, lập tức đẩy cửa xông vào, chạy thẳng vào phòng: “Quách soái, xin đừng phạt a huynh của cháu! Thực ra mọi chuyện đều có nguyên do cả.”

Nàng nói một hơi như trút đậu khỏi ống tre, tóm tắt rõ ràng mọi chuyện.

Nghe xong, sắc mặt Quách Cần Uy cuối cùng cũng dịu lại đôi phần: “Vậy tức là vì tỷ thí với Hồ thương từ Thổ Phồn nên Thập Thất lang mới say rượu, bỏ lỡ điểm danh?”

A Man gật đầu lia lịa: “Đúng vậy, xin Quách soái đừng trách phạt bọn họ.”

Có lẽ nhớ lại cảnh mình buổi sáng lười biếng không chịu rời giường, Thôi Tuần bỗng chốc lúng túng đến mức chỉ hận không thể đào một cái lỗ để chui xuống: “Quách soái, quân lệnh như sơn, đã điểm danh trễ thì vẫn là điểm danh trễ, không có lý do gì cả. Xin Quách soái cứ trách phạt hai mươi quân côn, Thôi Tuần không dám oán thán.”

A Man sốt ruột muốn nói gì đó, nhưng Quách Cần Uy đã quát lên: “Câm miệng! Cậu tưởng đến lượt cậu quyết định ở đây sao?”

Thôi Tuần ngẩn ra, cúi đầu đầy xấu hổ. Quách Cần Uy lại quở trách: “Xương cốt của cậu cứng hơn người khác à? Hay là thích chịu quân côn?”

Tào Ngũ vừa nghe xong, vui mừng nói: “Quách soái, có phải là người định tha cho bọn cháu rồi không?”

Quách Cần Uy trừng mắt với cậu một cái, khiến Tào Ngũ lập tức rụt cổ, cúi đầu, không dám hó hé thêm nửa lời. Trong phòng yên lặng đến mức một cây kim rơi xuống đất cũng có thể nghe rõ. Hồi lâu sau, Quách Cần Uy mới hơi hắng giọng: “Thôi được, dù sao cũng có thể xem mấy đứa như đã giành lại thể diện cho Đại Chu. Hôm nay, ta tạm tha cho cả ba người.”

Tào Ngũ và Thịnh Vân Đình mừng rỡ vô cùng: “Đa tạ Quách soái!”

Thôi Tuần vẫn còn áy náy vì việc trễ giờ điểm danh, Quách Cần Uy thấy vậy bèn nói: “Nhưng mà, tuy có thể miễn phạt hai mươi quân côn, nhưng mấy ngươi các cậu thông đồng lừa gạt ta, tội này không thể bỏ qua, vẫn nên có một chút trừng phạt. Vậy đi, phạt ba người các cậu trực đêm bảy ngày.”

Vốn dĩ bọn họ cũng phải thay phiên trực đêm, hình phạt này thực sự chẳng đáng kể gì. Nhưng với Thôi Tuần mà nói, ít ra cũng khiến y cảm thấy nhẹ nhõm phần nào. Y chắp tay đáp: “Tạ Quách soái.”

Quách Cần Uy hừ lạnh một tiếng, sắc mặt vẫn như cũ, nhưng khi sắp bước ra cửa, ông lại quay đầu nhìn Thôi Tuần, làm như thờ ơ nói: “Bắn trúng hai con nhạn thì có gì đáng khoe khoang? Chiều nay đến võ đài, ta dạy cháu một mũi tên bắn hạ ba con.”

Khóe môi Thôi Tuần cuối cùng cũng cong nhẹ lên, y ôm quyền chân thành đáp lại: “Đa tạ Quách soái!”

Buổi chiều, Thôi Tuần và Tào Ngũ đến võ đài, còn Thịnh Vân Đình thì đưa tiễn A Man. Bên đường cổ đạo, hàng dương liễu rủ bóng lay động trong gió. Thịnh Vân Đình Thịnh Vân Đình quyến luyến không nỡ xa muội muội, hắn đem toàn bộ bổng lộc của mình nhét vào tay A Man: “Muội cầm lấy đi, để dành làm của hồi môn.”

A Man bật cười: “Nhân duyên còn chưa có, sao cần chuẩn bị của hồi môn chứ? A huynh, huynh giữ lại đi.”

Thịnh Vân Đình lắc đầu: “Ta ở đây có cơm ăn, chỗ ngủ, nào có tốn kém gì đâu. Muội cứ cầm lấy.”

A Man không thắng nổi huynh trưởng, đành phải nhận lấy. Thịnh Vân Đình lại thở dài: “Chỉ tiếc chuyến này muội đến đây, vẫn chưa tìm được một mối hôn sự tốt.”

A Man nghe vậy, vô thức đưa tay khẽ vuốt cây trâm sen giấu trong ống tay áo, lòng bỗng dấy lên một dũng khí lạ lùng. Nàng mở miệng, giọng ngập ngừng: “A huynh, thật ra… lần này muội đến đây, đã tìm được người muốn gả rồi…”

Thịnh Vân Đình cả kinh, mừng rỡ hỏi: “Là ai?”

Hai gò má A Man ửng hồng, nhưng cái tên ấy, rốt cuộc nàng vẫn không thể thốt ra thành lời. Thịnh Vân Đình nhìn nàng đầy nghi hoặc, hắn vốn tinh tế, lập tức hồi tưởng lại mọi cử chỉ gần đây của muội muội, sắc mặt đột nhiên biến đổi: “Không phải muội muốn gả cho… Thập Thất lang đấy chứ?”

A Man không phủ nhận, nàng cắn môi: “A huynh…”

“Không được!” Thịnh Vân Đình gạt phắt đi: “Gia thế cậu ấy thế nào, nhà chúng ta làm sao với nổi!”

A Man cuống quýt: “Làm thê không xứng, làm thiếp cũng được mà! A huynh, muội thích Thập Thất lang, muội muốn gả cho chàng!”

Thịnh Vân Đình giận đến tím mặt: “Nếu muội vẫn là muội muội của ta, thì đừng nhắc lại lời này lần thứ hai! Nghe đây, nhà họ Thịnh dù nghèo, nhưng nữ nhi họ Trịnh, quyết không làm thiếp!”

A Man ngây người, vành mắt lập tức đỏ hoe. Thịnh Vân Đình dù có chút hối hận vì đã nặng lời, nhưng vẫn cứng rắn nói: “A Man, người nghèo có thể nghèo tiền bạc, nhưng chí khí không thể thấp hèn. Muội có thể thích một người, nhưng không thể vì thích người ấy mà vứt bỏ tôn nghiêm, cam tâm tình nguyện làm thiếp của người ta. Muốn người khác xem trọng mình, trước hết phải biết tự yêu lấy bản thân. Nếu không, thứ tình cảm của muội cũng chỉ có thể tự làm cảm động chính mình, chứ không thể lay động được bất kỳ ai. Nghe rõ chưa?”

A Man nửa hiểu nửa không. Thịnh Vân Đình nhìn nàng, trầm giọng: “Muội đi đi. Sau này, rồi muội sẽ hiểu rõ những lời ta nói hôm nay.”

A Man cắn môi, khẽ gật đầu. Nàng ôm chặt bọc hành lý, leo lên xe ngựa. Khi xe bắt đầu lăn bánh, nàng vén rèm, ngoái đầu nhìn lại, thấy a huynh vẫn đứng nguyên tại chỗ, dõi theo nàng không rời, chẳng chịu quay đi. Mũi nàng chợt cay cay, liền thò đầu ra, lớn tiếng gọi: “A huynh, muội sẽ nhớ lời huynh dặn!”

“A huynh, muội sẽ giữ gìn tự tôn, cũng sẽ biết quý trọng bản thân! Huynh cứ yên tâm!”

Trong tiếng hô vang trong trẻo của thiếu nữ, bánh xe ngựa lặng lẽ lăn đi, đưa nàng rời khỏi Thanh Châu.

Về sau, khi A Man dần trưởng thành, nàng ngày một thấu hiểu những lời a huynh từng nói.

Phải biết tự quý trọng chính mình, thì mới được người khác trân trọng.

Từ đó, nàng sẽ không vì thích một người đàn ông mà cam nguyện làm thiếp cho hắn.

Nàng không muốn làm thiếp của bất kỳ ai.

Chỉ có điều cây trâm cài hình hoa sen năm nào, vẫn được nàng cẩn thận cất dưới gối, giữ gìn như một báu vật.

Về sau nữa, chính là trận chiến ở Lạc Nhạn Lĩnh.

A huynh chết rồi, Tào Ngũ cũng chết rồi. Người từng là ánh trăng sáng thanh cao, không thể với tới trong lòng nàng, Thôi Vọng Thư, lại trở thành vũng bùn nhơ bị người người phỉ nhổ.

Sau vô số đêm khóc đến đứt từng đoạn ruột gan, cuối cùng cây trâm sen ấy cũng bị nàng ném xuống hồ, chìm vào bùn đất, vĩnh viễn không lại được nữa.

Danh Sách Chương:

Bạn đang đọc truyện trên website TruyenOnl.COM
BÌNH LUẬN THÀNH VIÊN
BÌNH LUẬN FACEBOOK